ÂM ĐÔ ( Yin dù) còn có tên là Thực cung, Thạch cung, Thông quan. Huyệt thứ 19 thuộc Thận kinh ( K19). Theo"Kinh huyệt thích nghĩa hội giải" ghi rằng: Bụng thuộc âm, là âm ở trong âm, là Thận, Thận thuộc thủy. Đô là nơi thủy hội tụ. Huyệt này dưới huyệt Thông cốc 1 thốn. Chỗ hội tụ của Xung mạch và Túc thiếu âm nên gọi là Âm đô.
ÂM CỐC ( Yìngu). Huyệt thứ 10 thuộc Thận kinh ( K 10). Tên gọi: Âm có nghĩa là mặt trong của chân. Cốc có nghĩa là lũng, suối, chỗ hõm. Huyệt này thuốc kinh âm ( Thận), nằm trong chỗ hõm trên mặt bên của hố vùng khoeo. Do đó có tên là Âm cốc.
ÂM BAO còn có tên là Âm bào ( Yin Pao) Huyệt thứ 9 thuộc Can kinh (Liv 9). Âm Bao có nghĩa là: Âm ( mặt trong đùi thuộc về âm); Bao (bọc, chứa đồ bên trong). Huyệt nằm giữa Thận kinh và Tỳ kinh, cả hai kinh này đều thuộc Âm. Can khí của Túc Quyết âm liên lạc với tử cung qua huyệt này. Do đó có tên là Âm bao hay Âm bào.
Á MÔN (Yă Mén) . Huyệt thứ 15 thuộc Mạch Đốc ( GV 15). ( Hội của mạch Đốc và mạch Dương duy ) Tên gọi: Á ( nghĩa là câm); Môn ( nghĩa là cổng). Người xưa cho rằng người bị câm khi châm huyệt này sẽ nói được, nếu cứu huyệt này có thể không nói được. Nên có tên Á môn
A THỊ HUYỆT còn có tên là Bất định huyệt, Thiên ứng huyệt ( Tian Ying Xue, Points E Shi). A thị huyệt là những huyệt không có vị trí nhất định, cũng không tồn tại mãi mãi, chỉ xuất hiện ở những chổ thấy đau mà thôi. A thị huyệt có đặc tính là khi châm hay cứu chữa được những chứng đau nhức tại chỗ rất tốt vì có tác dụng lưu thông khí huyết.