Phúc Tâm Đường

https://www.phuctamduong.com


TÌM HIỂU ĐỊA DANH: ĐẬP ĐỒNG CAM - PHÚ YÊN

.

.

PHÚC TÂM ĐƯỜNG xin giới thiệu đến các bạn một tác phẩm của Thầy Nguyễn Đình Chúc đã dày công tìm hiểu và nghiên cứu địa danh vùng đất " Xứ Nẫu" qua tục ngữ, ca dao:


Nước Sông Ba chảy qua Thạnh Hội
Thương nhau rồi nỡ vội đi đâu
Để cho suối Thá âu sầu
Đồng Cam, Dốc Võng đâu đâu cũng buồn !
 
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Đồng Cam xây dựng nhớ ngày năm xưa
Gian nan, cực nhọc, bấy giờ…
Công ơn biết mấy cho vừa đừng quên.
 
     Thượng nguồn Sông Ba, Đà Rằng đầu thế kỷ XX có xây dựng đập Đồng Cam. Đây là một công trình quy mô, lấy nước Sông Ba tưới cho hai vạn hecta đồng lúa Tuy Hòa.
     Đồng Tuy Hòa do phù sa sông Đà Rằng bồi đắp lên. Thuở xa xưa cánh đồng này là biển cả. Dấu vết còn lại như Gành Đá thôn Mỹ Hòa, xã Hòa Thắng, đồi cát trắng thôn Mỹ Thạnh xã Hòa Phong, Gành Bà thôn Phước Thành ( đối diện Dinh Ông xã Hòa Định, phía Nam sông Đà Rằng)…Qua năm tháng không rõ là bao lâu, phù sa bồi dần thành những cánh đồng , dân cư về sinh sống xây dựng thành làng xóm. Mỗi làng có lũy tre bao bọc xung quanh trông tựa những hòn đảo ngoài biển khơi. Dân chúng khai hoang, vỡ hóa làm thành các thửa ruộng cấy lúa, trồng ngô sinh sống. Đồng Tuy Hòa thời bấy giờ chỉ làm một vụ ăn nước trời, đến mùa nắng ruộng khô nức nẻ, không trồng thêm hoa màu phụ được, nên mức sống người dân rất thấp.
Đến năm 1923 khởi công xây dựng đập Đồng Cam, đến năm 1931 hoàn thành đập, năm 1932 hoàn thành kênh mương và khánh thành, tháng 11 năm 1933 Bảo Đại đến thăm đập Đồng Cam.



( ảnh theo Google Maps)

( ảnh theo http://phuyentourism.gov.vn)


( ảnh theo .lienbangtravel.com)
     Đây là một công trình quy mô, được các kỹ sư người Pháp thiết kế và dân phu từ khắp nơi đưa về, với số lượng đông đảo xây dựng. Đập dài 688m, cao 22,4m so với mặt nước biển, chiều dài hệ thống kênh mương khoảng 200Km. Kinh phí xây dựng 2,1 triệu đồng Đông dương tương đương 262.000 tấn thóc.
     Một thời gian kỷ lục 10 năm, đập Đồng Cam được hoàn thành, đưa nước sông Đà Rằng theo hệ thống nông giang vào ruộng, nông dân cấy lúa 2 vụ vùng đất trở nên trù phú , giàu có.
     Việc xây dựng công trình trải qua bao nhiêu gian khó, tốn mồ hôi và xương máu. Tuy nhiên "  việc xây con đê này rất khó, vì nơi này lam sơn chướng khí. Các viên kỹ sư, giám thị người Pháp và những thầu khoán cùng công nhân An Nam đều phải sinh hoạt một cách hết sức nguy hiểm. Nhà nào người nấy đều lo sợ ma thiêng nước độc"…
     Đã hai phần ba thế kỷ, đồng lúa Tuy Hòa mỗi năm được phù sa sông Đà Rằng bồi lên. Lúa mỗi ngày tốt hơn, cho nên đồng Tuy Hòa được coi là «Vựa lúa Liên Khu Năm ».Trong mỗi năm trường kỳ của hai cuộc kháng chiến quân và dân khu 5 có đủ lương thực đánh đế quốc xâm lược nhờ vào vựa lúa đồng Tuy Hòa, nhưng thật ra nhờ sự dẫn thủy nhập điền đưa nước vào ruộng của đập Đồng Cam.
     Mấy năm gần đây công trình xuống cấp nhiều và được lần lượt tu bổ hệ thống kênh mương. Chính quyền đã thiết lập công sở, nhà truyền thống, để cán bộ nhân viên có nơi làm việc cư trú. Tại đập Đồng Cam có miếu thờ 52 dân phu tử nạn khi xây dựng đập vào năm 1930 và miếu Sơn thần trên đỉnh đồi cạnh đập Đồng Cam. Đây là miếu Sơn thần duy nhất ngày nay còn tồn lại tại Phú Yên.
     Nơi đây, phong cảnh rất đẹp du khách xa gần thường đến tham quan có đề lại thơ phú.
     Và kỷ niệm in sâu vào lòng người Phú Yên những năm kháng chiến đó là năm 1947, giặc Pháp đặt mìn phá hỏng cổng xả cát bờ Nam và cầu máng Quy Hậu. Năm 1952 giặc Pháp ném bom phá cầu mán Đồng Bò và ngày 6-6-1952, phá cầu mán Suối Cái. Hệ thống thủy nông Đồng Cam bị phá hủy chính quyền tỉnh huy động hàng vạn dân công khẩn trươ,ng đắp đập cứu đồng.
Nhà thơ Nguyên Hồ cổ vũ dân công thi đau thực hiện công việc trên. Để tránh máy bay, dân công phải làm ban đêm, đèn đuốc được thắp sáng rực.
     Tác giả đã sáng tác tại chỗ những câu ca dao :
Chặt cọc mà móc đèn vô
Để chi phải tốn một cô cầm đèn
Chặt cọc mà móc đèn lên
Để chi phải tốn một em cầm đèn.
     Nguyên Hồ lại còn sáng tác những câu mang tính chất trữ tình khích lệ trai gái.
Em là cô gái Hòa Quang
Anh,trai Hòa Định hai làng đâu xa
Về đây họp lại một nhà
Như con một mẹ, như hoa một cành.
     Đập Suối Cái hoàn thành, trời mưa nước chảy theo mương về đồng. Nguyên Hồ viết :
Nước về chở nặng phù sa
Mang theo tiếng hát lời ca êm đềm
Nước cười sáng ánh sao đêm
Nước men theo đập nước vào ruộng sâu
Nước reo, nước vỗ chân cầu
Nước vui lúa tốt nước sầu đất hoang
Đêm đêm dưới ánh trăng vàng
Tiếng ai tát nước hò khoan, khoan hò.



( ảnh theo .lienbangtravel.com)

 

Tác giả bài viết: Nguyễn Đình Chúc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây