Phúc Tâm Đường

https://www.phuctamduong.com


THIÊN THỨ NHẤT BỆNH, MẠCH, CHỨNG, TRƯỚC SAU THEO TẠNG, PHỦ, KINH, LẠC

kim quỹ yếu lược

kim quỹ yếu lược

ĐIỀU 1 Hỏi Bậc thượng công trị lúc chưa bệnh là thế nào ? Thầy đáp Trị lúc chưa bệnh, là thấy Can bệnh biết sẽ truyền đến Tỳ, trước tiên phải làm cho Tỳ mạnh lên. Bốn tháng cuối mùa, lúc Tỳ vượng, không thọ tà, không cần bổ Tỳ. Hạng trung công không hiểu quy luật tương truyền, thấy Can bệnh, không biết làm mạnh Tỳ, chỉ lo trị ở Can.
 
Can bệnh, dùng vị chua để bổ, dùng vị khét đắng để hỗ trợ, dùng vị ngọt để ích cho nó. Chua vào Can, khét đắng vào Tâm, ngọt vào Tỳ. Tỳ có thể làm tổn thương Thận (Thổ khắc Thủy). Thận khí yếu thì thủy không vận hành, thủy không hành thì Tâm hỏa khí thịnh lên làm cho  Phế bị tổn thương. Phế bị tổn thương thì  Kim khí không vận hành, Can khí sẽ thịnh. Do đó, bệnh của Can tự khỏi. Đó là diệu pháp trị Can bằng cách bổ Tỳ. Can hư thì  dùng phép này, thực thì  không trị như thế. Sách Nội Kinh viết:  “Hư trị theo hư, thực trị theo thực, bổ vào chỗ không đủ, bớt chỗ có thừa”, nghĩa nó là như thế. Các tạng khác chiếu theo đấy làm chuẩn.

ĐIỀU 2
 Con người bẩm 5 thường (tức 5 hành, thực tế chỉ 5 tạng), nhờ phong khí (khí hậu trong tự nhiên giới) mà sinh trưởng. Phong phú tuy hay sinh vạn vật, cũng hay hại vạn vật, như nước hay xuôi thuyền, cũng hay lật đắm thuyền. Nếu nguyên chân 5 tạng thông sướng, con người an hòa. Nếu không an hòa thời khách khí, tà phong trúng vào người, phần nhiều là chết. Tất cả bệnh tật xảy ra không ngoài 3 con đường : là kinh lạc thọ tà, vào tạng phủ là nội nhân, 2 là tứ chi, chín khiếu huyết mạch tương truyền, vít lấp không thông, là trúng ngoài bì phu, là ngoại nhân, 3 là phòng thất kim, đao, trùng thú làm bị thương. Rõ được 3 con đường đó, nắm hết được nguyên nhân sinh bệnh.
            Nếu người biết dưỡng sinh phòng bệnh, không để cho phong tà phạm vào kinh lạc, vừa trúng vào kinh lạc, chưa truyền tạng phủ, liền trị đi. Tay chân vừa cảm thấy nặng nề liền dùng phép đạo dẫn (phép dưỡng sinh), thổ nạp (điều chỉnh hô hấp), châm cứu, cao ma (dùng cao dược xoa bóp), đừng để cho 9 khiếu bế tắc, đừng để phạm tội hình, hoặc cầm thú cắn bị thương, việc phòng thất đừng để kiệt lực. Ăn uống e dè nóng, lạnh, đắng, chua, cay, ngọt, đừng để hình thể suy nhược, thời bệnh không có đường vào tấu lý. Tấu là nơi khí nguyên chân hội thông ở Tam tiêu, là nơi huyết khí ra vào, lý là văn lý ở giữa bì phu, tạng phủ.
 
ĐIỀU 3
 Hỏi : Bệnh nhân có khí sắc hiện lên mặt, muốn nghe Thầy nói.
Thầy nói : Chót mũi sắc xanh là trong bụng đau, (mộc uất khắc thổ), lạnh khó chịu là chết, chót mũi hơi đen là có thủy khí (Thân khí thắng Tỳ), sắc vàng là trên Hung có hàn (Tỳ bệnh sinh ẩm), sắc trắng là vong huyết (Kinh nói : sắc trắng là hàn, lại nói : huyết thoát sắc trắng) giả sử thấy sắc hơi đỏ, trái mùa là chết (mùa hạ hỏa lệnh mà thấy sắc trắng của mùa thu). Mắt tròn lựng là bệnh Cảnh, bất trị (thuộc âm tuyệt, dương cường), sắc xanh là đau (huyết ngưng), sắc đen là Lao (lao thì thương Thận), sắc đỏ là Phong (Phong là dương tà), sắc vàng, đại tiện khó (Tỳ bệnh thời không vận chuyển), sắc sáng tươi có lưu ẩm (Nội kinh nói : người có thủy bệnh, dưới mắt có ngọa tàm (dáng con tằm nằm vắt ngang), mặt mắt tươi láng).

ĐIỀU 4
 Thầy nói : Bệnh nhân im không nói, hay kêu la hoảng sợ, bệnh ở trong cốt tiết (bệnh ở Can, Thận). Tiếng nói thấp, nhỏ, không rõ ràng, bệnh ở khoảng Tâm, hung. Tiếng nói ti tỉ, nhỏ mà dài, bệnh ở trong đầu.

ĐIỀU 5
Thầy nói : Thở day động vai là tà khí thực trong Tâm, thở dẫn khí trong hung lên, ho, thở há hốc miệng, hơi ngắn là Phế nuy (phổi teo) nhổ ra bọt dãi.

ĐIỀU 6
Thầy nói : Thở vào mà hơi gấp rút, là bệnh ở trung tiêu thực, nên hạ đi thời lành, người hư không trị. Ở thượng tiêu, thở vào ngắn, cạn, ở hạ tiêu hít vào xa, đều là khó trị. Hô hấp day động run run, bất trị.

ĐIỀU 7
Thầy nói : Thốn khẩu mạch Động, nhân lúc nó vượng mà Động, ví như Can vượng sắc xanh. Bốn mùa, mỗi mùa đều tùy theo sắc của nó. Can sắc xanh mà trở lại sắc trắng (Kim khắc mộc) không phải mạch đúng thời sắc, đều là bệnh.

ĐIỀU 8
Hỏi : Có khi chưa đến mà đến, có khi đến mà không đến, có khi đến mà không đi, có khi đến mà thái quá là thế nào.
Thầy nói : Sau ngày Đông chí, nửa đêm ngày Giáp Tý Thiếu dương bắt đầu, là thời bệnh của Thiếu dương. Dương bắt đầu sinh, khí trời được ôn hòa. Chưa đến ngày Giáp Tý, mà khí trời đã ôn hòa, đó là chưa đến mà đến. Đã đến ngày Giáp Tý mà khí trời chưa ôn hòa, đó là chưa đến mà đến. Qua ngày Giáp Tý mà khí trời Đại hàn không giải, đó là đến mà không đi. Đã qua ngày Giáp Tý mà trời ấm như lúc thạnh hạ tháng năm, tháng sáu là đến thái quá.

ĐIỀU 9
Thầy nói : Bệnh nhân mạch Phù ở trước (Thốn), bệnh ở Biểu, mạch Phù ở sau (Xích), bệnh ở Lý, thắt lưng đau, lưng cứng không đi được, hẳn hơi thở ngắn mà “cực” vậy.

ĐIỀU 10
Hỏi : Kinh nói : “Quyết dương đực hành” là thế nào ?
Thầy nói : Đó là dương không âm, cho nên gọi là Quyết dương.

ĐIỀU 11
Hỏi : Mạch Thốn Trầm, Đại mà Hoạt. Trầm thời là thực, Hoạt thời là khí, thực và khí chọi nhau, huyết khí vào tạng, chết ngay, vào Phủ lành ngay, đó là “Tốt quyết” (thốt nhiên tối tăm mày mặt, ngã ra) là thế nào ?
Thầy nói : Môi miệng xanh, mình lạnh, là vào Tạng, chết ngay, là mình hòa (không nóng, không lạnh), mồ hôi tự ra, là vào phủ, lành ngay.

ĐIỀU 12
Hỏi : Mạch thoát vào tạng chết ngay, vào Phủ, lành ngay là thế nào ?
Thầy nói : Không phải là 1 bệnh, 100 bệnh đều như thế. Vì như tẩm dâm sang (một loại bệnh ở bì phu, hay từ cục bộ, lan ra khắp mình), từ miệng bắt đầu lan ra tay chân, có thể trị, từ tay chân lan vào miệng không thể trị, bệnh ở ngoài có thể trị, vào trong, chết ngay.

ĐIỀU 13
Hỏi : Dương bệnh (bệnh ở biểu, ở kinh lạc) 18 là thế nào ? Thầy nói : Đầu đau, cổ, thắt lưng, xương sống, cánh tay, cẳng chân đau rút.
            Âm bệnh (thuộc nội bộ tạng, phủ) 18 là thế nào ?
Thầy nói : Ho, khí nghịch lên, suyễn, ói, nghẹn, ruột sôi, trướng đầy, Tâm thống, co quắp. Năm Tạng, tạng nào cũng có 18, hiệp thành 90 bệnh. Con người lại có Lục vi, vi có 18 bệnh, hiệp thành 108 bệnh. Ngũ lao, thất thương, lục cực (khí cực, huyết cực, cốt cực, cơ cực, tinh cực, cực là lao tổn cực độ) ba mươi sáu bệnh của phụ nữ không có trong số này.
            Thanh tà ở trên, trọc tà ở dưới, tiểu tà trúng vào lý, tà do ăn uống theo miệng vào thành túc thực. Năm tà trúng vào người, đều có pháp độ, phong trúng trước (giờ Ngọ), Hàn trúng vào chặp tối, Thấp thương ở dưới, sương móc thương ở trên, phong khiến cho mạch Phù, Hàn khiến cho mạch Cấp, sương móc thương bì mao, Tấu lý, Thấp đọng ở quan tiết (đốt xương), ăn uống thương Tỳ, Vy, cực hàn thương kinh, cực nhiệt thương lạc.

ĐIỀU 14
Hỏi : Bệnh có khi gấp, nên cứu Lý, cứu Biểu là thế nào ?
Thầy nói : Bệnh, y giả hạ đi, tiếp tục hạ lợi thanh cốc (ra nguyên đồ ăn uống) không dứt, mình mẩy đau nhức, gấp nên cứu Lý, sau thân thể còn đau nhức, đại tiện tự điều hòa, gấp nên cứu Biểu.

ĐIỀU 15
Bệnh có cố tật (bệnh lâu khó trị), lại thêm bệnh mới, nên trị bệnh mới trước, sau trị cố tật.

ĐIỀU 16
Thầy nói : Năm tạng bệnh đều có sở đắc (ăn uống, cư xử thích hợp với bệnh) là lành, năm tạng đều có sở ố (chỉ sự ăn uống, cư xử bệnh nhân chán ghét). Mỗi tạng đều tùy chỗ không ưa của nó mà sinh bệnh. Người bệnh vốn không ưa ăn mà trở lại muốn ăn ghê gớm, ăn vào tất phát nhiệt.

Tác giả bài viết: sưu tầm

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây